Hiển thị các bài đăng có nhãn cọc cừ tràm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cọc cừ tràm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018

Tìm hiểu về cừ tràm và cách tính toán kết cấu móng cừ tràm cho công trình


Cọc tre và cọc tràm (được hiểu là "Nền móng gia cố cừ tràm" là giải pháp công nghệ mang tính truyền thống để xử lý nền cho công trình có tải trọng nhỏ trên nền đất yếu. Cọc tràm và tre có chiều dài từ 3 - 6m được đóng để gia cường nền đất với mực đích làm tăng khả năng chịu tải và giảm độ lún. Theo kinh nghiệm, thường 25 cọc tre hoặc cọc tràm được đóng cho 1m2 . Việc sử dụng cọc tràm trong điều kiện đất nền và tải trọng không hợp lý đòi hỏi phải chống lún bằng cọc tiết diện nhỏ.
Sử dụng Cọc tràm  trong thiết kế quả là một việc làm không chuẩn mực, nhưng không phải vậy mà không sủ dụng đến, thực tế nó vẫn sủ dụng tốt cho những nơi có điều kiện thích hợp. Thường nó được xử dụng như một phương pháp xử lý nền đất yếu trong dân gian.
Việc tính toán móng trên nền có cừ tràm cũng có thể mang lại một số hiệu quả đáng kể
- Tận dụng được vật liệu địa phương.
- Thích hợp cho công trình xây chen.
- Có đủ khả năng chịu tại trọng của công trình từ 3 đến 5 tầng.
Đa phần thiết kế móng cọc tràm thì theo kinh nghiệm chứ không có một tiêu chuẩn nào về nó
Hiện nay Nhà nước đã bỏ ra rất nhiều tiền cho các nhà khoa học trong nước nghiên cứu về vấn đề này, hầu hết đều cố gắng tìm một lý thuyết nào đó hay một quan điểm để áp dụng cho việc tính toán này, cách đây vài năm có một hội thảo khoa học cấp bộ để đưa ra các tiêu chuẩn về cọc tràm nhưng tới giờ vẫn chưa được công bố. Thậm chí còn dự định đưa thành tiêu chuẩn thiết kế và nghiệm thu móng cọc cừ tràm (đã có bản Dự Thảo do Phân viện KHXD Miền Nam (IBST) xây dựng trên cơ sở đề tài của GS-TSKH Hoàng Văn Tân). Nhưng nó chưa thể hình thành được vì nhiều vấn đề khó có thể tiêu chuẩn hóa được.

LỊCH SỬ CỪ TRÀM

Cọc cừ tràm được người Pháp sử dụng cách đây trên 100 năm, (ví dụ nhà hát TP HCM. Một thời gian rất dài khi mà cọc bêtông cốt thép chưa được sử dụng rộng rãi, những căn hộ ở TPHCM nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói chung thường dùng cừ tràm như một giải pháp gia cố móng khi xây trên nền đất yếu. Ví dụ chung cư Thanh Đa- Quận Bình Thạnh-TP HCM được xây dựng vào khoảng năm 1968-1972 đều dùng cừ tràm. Thực tế đã chứng minh công trình vẫn tồn tại rất tốt dù kiến trúc không còn phù hợp hoặc phần kết cấu chính sắp sập đổ do sự hư hỏng theo thời gian. Trong số đó có những căn hộ cấp 4, đến những chung cư 3 đến 6 tầng đang tồn taị đến nay là một minh chứng cho kinh nghiệm cuả những người đi trước trong việc sử dụng cừ tràm như một giải pháp hiệu quả giai cố nền móng cho những công trình nhỏ + thấp tầng.

ĐẶC ĐIỂM CỌC CỪ TRÀM

Cừ tràm hay tràm cừ còn có tên khác: Tràm ta, Tràm cajuputi. Tên khoa học: Melaleuca cajuputy Powell, Họ thực vật: Sim (Myrtaceae). Vùng trồng thường ở vùng Tây Nam Bộ. Nó có một số công dụng: gỗ dùng để làm cọc cừ trong xây dựng, làm nhà, đóng đồ dùng, đốt than…Lá cất tinh dầu làm dược liệu, vỏ xảm thuyền. Kỹ thụât trồng:
§  Thích hợp nơi có nhiệt độ trung bình 26 - 27 0 C, lượng mưa 1.500 - 1.800mm
§  Đất ngập phèn, pH: 2,5 - 3,0, thành phần cơ giới nặng, ngập trung bình 4-5 tháng trong năm.
§  Mọc được ở đất ngập vùng núi đá vôi, đất xám, đồi núi ít chua, pH: 5-6.
§  Hạt giống phong phú, thu hái ở rừng giống chuyển hoá và các xuất xứ đã được công nhận.
§  Trồng tập trung.
§  Trồng theo tiêu chuẩn ngành về kỹ thuật trồng bằng cây con có bầu, cây con rễ trần hoặc gieo hạt thẳng, mật độ dày 10.000 - 20.000 cây/ha.
§  Cọc tràm được làm từ cây cừ tràm là vật liệu gỗ nên không thể xem là vật liệu có tính truyền lực đẵng hướng, đặc thù cây tràm có cây cong, cây thẳng, tuổi đời khác nhau.
§  Việc sử dụng cọc tràm còn phụ thuộc rất nhiều vào mực nước ngầm trong năm, mà mực nước ngầm thì thay đổi theo mùa, từng vùng cũng có sự thay đổi về mực nước ngầm khác nhau. Tuy nhiên cũng có bằng chứng cho thấy, khi ở trong môi trường nước (đặc biệt là môi trường biển) cọc bị vi sinh và nồng độ hóa chất(đặc trưng bằng độ pH của đất) ăn mòn nhiều.

CÁCH ĐÓNG CỪ TRÀM

Có thể tham khảo công thức đối với cọc tre để tính số lượng cọc trên 1 m2 được xác định theo công thức
n=4000*(e0-eyc)/(pi*d^2*(1+eo))
Trong đó:
§  n: số lượng cọc
§  d: đường kính cọc
§  e0: độ rỗng tự nhiên
§  eyc: độ rỗng yêu cầu
Từ công thức trên ta thấy:
§  Đất yếu vừa có độ sệt IL = 0,55 ÷ 0,60 , cường độ chịu tải thiên nhiên R0=0,7 ÷ 0,9 kG/cm2 đóng 16 cọc cho 1m2.
§  Đất yếu có độ sệt IL = 0,7 ÷ 0,8 , cường độ chịu tải thiên nhiên R0=0,5 ÷ 0,7 kG/cm2 đóng 25 cọc cho 1m2.
§  Đất yếu quá có độ sệt IL > 0,80 , cường độ chịu tải thiên nhiên R0< 0,5 kG/cm2 đóng 36 cọc cho 1m2.
Theo 22TCN 262-2000 thì cọc tre đóng 25 cọc/1m2, cừ tràm 16cọc/1m2.
Cần thiết phải đóng cừ rộng ra ngoài diện tích móng, mỗi cạnh từ 0,1 - 0,2m để tăng sức chống cắt của cung trượt. Thí dụ điển hình là tại công trình chợ Tân Quy Tây, trụ sở một công ty công trình ở đường Xô Viết Nghệ Tĩnh và nhất là lô IV cư xá Thanh Ða, diện tích đóng cừ tràm bị thu hẹp đáng kể, đóng lùi sâu vào bên trong cạnh móng dẫn đến lún
Có người “cầu kỳ” đóng chung quanh trước rồi mới đóng dần vào trong - ý muốn tạo sự nén chặt đất trong phạm vi đóng cừ. Thực chất không tác dụng gì mà chỉ cực cho việc thi công, vì cừ không lèn chặt được đất bùn.
Về độ sâu của móng cừ tràm, nhiều người có thói quen đặt đầu cừ tràm phải nằm dưới mực nước ngầm thấp nhất. Ðiều này đưa đến việc phải đặt đáy móng khá sâu, gây bất lợi cho thi công nhất là vào mùa mưa. Các tài liệu địa chất cho thấy: ở vị trí cao hơn mạch nước ngầm, đất vẫn ẩm ướt, độ bão hòa cao, do đó đủ độ ẩm để đầu cừ tràm không bị khô và sẽ không bị mục. Vì vậy, tùy theo chất đất bên trên mực nước ngầm, có thể chọn đầu cừ tràm cao hơn mực nước ngầm, miễn sao đầu cừ luôn ẩm ướt. Ở đất sét, nước mao dẫn có thể lên đến 5 - 6m.
Một thói quen cần tránh khi thi công là lấy cát phủ lên đầu cừ sau khi đóng. Nhiều người đóng xong cừ là phủ lên đầu cừ một lớp cát dày. Khi làm như vậy, dưới áp lực đáy móng, cát có thể chui xuống bùn hay len vào các kẽ rỗng bên trên của lớp bê tông lót. Theo dòng chảy, cát cũng có thể chuyển dịch. Hoặc khi công trình kề bên đào móng, cát sụt lở, chiều dày lớp cát đệm thi công không đều nhau... đều là những nguyên nhân gây lún hay lún không đều. Cách khác cũng thường gây lún do “xem thường” lớp bê tông lót, cứ sắp đá 4 - 6 xuống và trải hồ vữa xi măng bên trên, cán đều. Lúc này, dưới áp lực đáy móng, dẫn đến kết cấu của lớp lót này không vững, biến dạng và gây lún sụt. Như vậy cần thiết phải tạo lớp lót bằng bê tông đá 1-2 và đổ trực tiếp trên đầu cừ để tạo liên kết thành một khối. Ngoài ra việc phủ cát làm móng  không liên kết với khối cừ tràm nên độ cứng nền – móng bị giảm yếu, do đó có thể bị rung động khi xe chạy bên trên hoặc bên cạnh. Mặt khác do ảnh hưởng của lực xung động, lớp cát đệm có thể bị chảy làm gia tăng độ lún và sự rung động công trình.
Vậy thì nhất thiết phải đặt đầu cừ tràm (cọc tre) vào lớp bêtông lót để lực đứng và ngang truyền từ móng sang khối cừ tràm, để móng và cừ tràm tạo thành một khói chịu lực, không được có lớp cát đệm trung gian.
Thi công cọc tre Đào đất
-  Đóng cọc tre
-  Rải một lớp vỏ bao hoặc nylon
-  Đặt cốt thép và đổ bê tông(dạng móng bè).
Kết quả: các nhà liền kề với nhau xây nhà và sử dụng nhưng không thấy nứt, nghiêng. Còn lún thì chắc cũng ít thôi. Như vậy việc đặt trực tiếp móng công trình lên đầu cọc tre cừ tràm chắc là tốt. Còn việc sử dụng vật liệu rời (cát, đá) thì có lẽ chỉ sử dụng được phần cường độ tăng thêm do tác dụng làm chặt đất của cọc  tre cừ tràm thôi

ĐẶC ĐIỂM LÀM VIỆC

Theo 22TCN 262-2000, khi tính tóan xem vùng đất có cọc như là nền đất đắp.  Với cừ dài 4 - 5m, đường kính gốc 10 - 12cm, ngọn 6 - 8cm và mật độ 25 cây/m² thì sức chịu tải của đất đạt từ 0,6 - 0,9 kg/cm². Về mặt lý thuyết, có nhiều ý kiến khác nhau nhưng nên làm cho móng và cừ tràm kết hợp thành một khối "rắn". Vì trong đất bùn, cừ tràm có tác dụng liên kết với móng tạo thành một khối để chuyển lực xuống sâu hơn 4 - 5m (đáy của khối cừ tràm). Từ đó khối cừ tràm đủ sức chịu lực, chống cắt do các cung trượt gây ra ngay tại đáy móng. Khi móng bị phá, đất dưới đáy móng hình thành cung trượt, do đó số lượng và đường kính cừ tràm phải đủ để chịu lực cắt của cung trượt này
Thực tế thiết kế tính toán móng cừ tràm và qua một số kinh nghiệm thi công thử tải, theo dỏi lún cho thấy:
-  Một số công trình ổn định rất tốt trong điều kiện thích hợp.
-  Một số công trình có độ lún rất lớn trên 30cm, nguyên nhân không hòan tòan do móng lún móng trong nền mà chủ yếu do nền tòan khu vực bị lún, kéo công trình lún theo. Hầu hết là khu vực trước khia là đầm lầy ruộng lúa, sau đó được san lấp với chiều dầy trung bình 2 mét , cho dù lớp này có được lèn chặt bao nhiêu di nữa (Khu Đinh Bộ Lĩnh F26, Khu Bắc Van Thánh, Khu Nguyễn hửu Cảnh F22 Q BT,Khu Đô thị Q6, Q7 Nhà Be vv..), tất cả chỉ sau 2 năm có độ lún trên 30 cm, do đó nhà nào xây dựng đầu tiên thì bản thân nó sẽ được "hưởng" trên 30cm lún của khu vực này. Đó là điều mà các thiết kế và nghiên cứu thường không đề cập đến, và đó cũng là do hiệu ứng ma sát xẩy ra sẽ làm giảm khả năng chịu tải này.
-  Móng cừ tràm cũng như cọc tre sẽ phát huy tác dụng tốt nếu được tựa vào lớp đất tốt. Nếu cọc tràm và cọc tre nằm hoàn toàn trong sét nhão, thì tác dụng gia cố không nhiều, công trình sẽ bị lún theo thời gian. Lúc này, nên chọn phương án gia cố nền khác .Với quan điểm đóng cừ tràm trong đất bùn và gọi đó là gia cố nền làm cho bản chât vật lý của nền tốt hơn, để từ đó tính ra sức chịu tải mới thì hoàn toàn không có cơ sở bởi vì đất bùn giống như là chất dẽo, đong chổ này thì xì lên chổ khác,..Khi ta đóng xong hố cừ tràm với đầu cừ còn ló lên khỏi đáy hố khoẳng 15cm thì sáng hôm sau không còn thấy đầu cừ đâu nữa giống như ai đó đã nhổ đi vậy. Thật ra đó là do bùn xì lên lấp cả đầu cừ, mà ngay như khi ta đã đổ xong lớp bê tông.lót, bùn vẫn cứ theo khe hở mà xì lên, Thực tế cho thấy 25 năm sau khi XD chung cư Thanh Da khảo sát lại (Tài liệu Công Ty Kiểm định TP HCM) cho thấy Bùn vẫn là lớp BÙN như ngày nào...
-  Đi tìm một lý thuyết nào đó cho việc thiết kế cừ tràm là không phù hợp thực tế. Ở Sài gòn trước năm 1975 TS Phan Ngọc Thể chỉ đơn giản khi xem nhóm cừ tràm như là một nhóm, bó, và tính toán như là khối móng trong Nền Sét (góc ma sát = 0) như của Mỹ tính toán thì rất đơn giản và phù hợp. Từ cách tính này một điều cực kỳ quan trọng mà có thể xem là kinh khủng là "KÍCH THƯỚC MÓNG CỪ TRÀM CÀNG LỚN THÌ KHẢ NĂNG CHỊU TẢI TRÊN 1 MÉT VUÔNG CÀNG GIẢM" như 1m2 cừ tràm có thể chịu 80 kPa nhung khi tăng lên 2m2 có thể chỉ còn 70 Kpa và nếu làm thành cái bè thi có khi giảm còn 50 Kpa, Thực tế thấy là như vậy mà chưa có đề tài nghiên cứu nào đề cập đến
-  Nếu bỏ qua không xét đến độ lún > 20cm do toàn bộ khu vực bị lún (và còn lún còn kéo dài cho vài măn sau nửa) mà chỉ xét đến cục bộ giửa móng và nền thì có thể suy đoán được độ lún này nhưng vẫn không thể lấy đó để khẳng định được, do hiện tượng lún thứ cấp, hiện tượng trồi đất vv mà có thể xẩy ra rất lớn mà ta chưa có cơ sở giải quyết.

ỨNG DỤNG CỪ TRÀM

Theo kinh nghiệm, nên sử dụng cừ tràm ở những vùng đất yếu, đất bùn, có sức chịu tải thấp.
Không nên lạm dụng cừ tràm, nếu phài làm thì chỉ nên dùng cho nhà dưới 5 tầng (do kích thước móng không lớn) nhưng phải có biện pháp gíam sát thật kỹ ( kích thước, mật độ đóng, coi chường bị bẻ cừ,vv ). Sử dụng tốt nhất là bên dưới có một lớp đất tốt hơn mà mũi cừ có thể cắm vào được, khi đó cừ tràm có thể làm việc theo vật liệu cừ, và ta có thể xây nhà 5 tầng trên đó.
Vì cừ tràm nằm dưới mực nước ngầm và dưới đất một thời gian vỏ cừ tràm mục dần, nhiều công trình đào bới lên cho thấy 10-15 năm vỏ cừ tràm bị phá huỷ dần tuỳ theo tính chất của nước ngầm, như vậy ma sát giữa vỏ cừ tràm và các lớp đất không còn như ban đầu. Khi vỏ cừ tràm bị mục, đường kính của cừ tràm cũng bị thu hẹp lại, vậy sức chống mũi của cừ tràm cũng giảm. Cho nên không nên sử dụng cho những công trình 3, 4 tầng có niên hạn sử dụng trên 50 năm.

KẾT LUẬN

-  Không nên đánh giá quá thấp khả năng chịu lực cuả cừ tràm .
-  Không nên sử dụng cừ tràm ở nơi có điạ chất quá yếu và sâu, nên hạng chế sử dụng khi nền móng có sự rung động lớn, trong trường hợp nầy nên thay đổi thành móng bêtông hay những giải pháp móng kết hợp khác.
-  Nên phân bố áp lực đồng điều trên móng, độ lún móng khi gia cố cừ tràm cần được quan tâm, khả năng chịu lực tối đa sau khi gia cường nên lấy từ 0.6-0.8 kg/cm2.
-  Đường kính, chiều dài, và mật độ cừ (16 cây/m2 hoặc 25 cây/m2 hoặc 35 cây/m2...) cần được quan tâm.
-  Cấu tạo và chất lượng thi công lớp vật liệu chèn đầu cọc ảnh hưởng lớn đến độ lún và chất lượng nền cừ tràm.
-  Độ ẩm cuả đất và chất lượng nước ngầm ảnh hưởng đến tuổi thọ và chất lượng cừ theo thời gian sử dụng.
-  Quan niệm tính toán nên thiên về nhóm cọc và nên thí nghịêp ép tỉnh nhóm khi có điều kiện.
-  Hãy nhổ thử một cây cừ tại công trình được gia cố cừ lâu năm để có những suy ngẫm và quyết định đúng khi chọn giải pháp nền móng ( ...mục nát+ yếu nhớt ... khi không đủ độ ẩm ...).

Những lưu ý khi thi công đóng cọc cừ tràm trong xây dựng


1. Sử dụng cừ tràm hay cọc bê tông cốt thép?

Nếu nói cọc cừ tràm nhỏ gọn, linh động như xe hai bánh thì cọc bê tông cốt thép được ví như xe bốn bánh có thể đi xa và chở được nhiều người. Moto có kích thước nhỏ nên cơ động trên đường hẹp và hao tốn ít nhiên liệu, còn oto đi đường trường thoải mái mà lại hao tốn nhiên liệu. Do đó, tùy vào trường hợp mà ta sử dụng xe moto hay oto, sử dụng cừ tràm hay bê tông cốt thép. Nếu dùng cừ tràm thì sự tính toán về mặt kỹ thuật và kết cấu phải chính xác, thi công đúng thiết kế tránh tình trạng gian dối gây sụp lún. Thường thì những công trình ít tầng, xây trong khu đất nhỏ, hẹp về giao thông thì việc sử dụng cừ tràm là phương án tốt, do nếu sử dụng cọc bê tông cốt thép thì sẽ khó khăn trong quá trình vận chuyển hay di chuyển cọc vào đúng vị trí dễ bị ngáng bởi các vật cản. Ngược lại, những công trình cao hơn 5 tầng thường nằm ở khu thoáng đãng, giao thông thuận lợi nên sử dụng cọc bê tông cốt thép là phương án tốt. Mỗi loại đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó. Tôi đã có bài viết rất chi tiết về hai loại cọc này tại bài viết "Nên chọn cọc cừ tràm hay cọc bê tông cốt thép trong xây dựng?"

2. Trường hợp nên sử dụng cọc cừ tràm

Những vùng đất bùn, đất xốp thì nên sử dụng cừ tràm, do đất này có sức chịu tải rất thấp. Cọc cừ tràm sử dụng thường theo chuẩn như sau:
Chiều dài 4-5m, gốc cừ có đường kính tầm 120-150mm, đường kính ngọn tầm 60-80mm, mật độ đóng cừ thường là 25 cây mỗi mét vuông.
Phải làm cho cừ tràm và móng liên kết chắc chắn như là một khối, vì cừ tràm khi vào đất sẽ truyền tải từ trên xuống theo suốt chiều dài thân cừ tràm, liên kết chắc chắn với móng giúp cừ tràm chịu được các lực trượt rung gây ra tại đáy móng mà không bị trình trạng cắt cọc.
Các lực rung , trượt xuất hiện khi móng bị phá, lớp đất đá dưới đáy móng sẽ hình thành cung trượt. Từ đó mà yêu cầu số lượng, đường kính của cừ tràm phải đủ để chịu lực trên.
Sau khi đóng cừ, sức chịu tải của đất sẽ đạt tầm 0.8 – 1kg mỗi cm vuông.

3. Những lưu ý khi đóng cọc cừ tràm

Do trường hợp phá móng phát sinh cung trượt như đã nêu trên, khi thi công đóng cừ tràm , phải đóng cừ lấn ra ngoài diện tích móng, mỗi cạnh lấn từ 10-20 cm nhằm tăng sức chịu đựng lực rung cắt của cung trượt.
Có ý kiến cho rằng nên đóng cừ chung quanh trước rồi đóng vào trong, ý đồ muốn đất nén chặt lại trong phạm vi đóng cừ, nhưng thực chất việc này chỉ là vô nghĩa và gây thêm khó khăm trong việc thi công, đơn giản vì đất bùn không thể bị nén chặt lại bởi những cọc cừ.
Ngoài ra, thói quen của một số người khi thi công là phải đặt phần đầu của cừ tràm nằm dưới mực nước ngầm thấp nhất, điều này dẫn đến việc đáy móng sẽ phải đặt khá sâu, gây khó khăn hơn cho việc thi công, mất thêm thời gian đáng kể nếu gặp phải mùa mưa. Thực chất theo cái tài liệu nuyên cứu của nghành địa chất thì đất nằm trên mực nước ngầm độ bão hòa vẫn cao, đất vẫn ẩm ướt , không khác đáng kể gì so với lớp đất dưới mực nước ngầm, vì vậy vẫn đủ độ ẩm để đầu cừ tràm không bị khô và không quá ẩm ướt để đầu cừ tràm bị mục. Do đó, tùy theo địa chất , ta vẫn có thể đặt đầu cừ tràm cao hơn mực nước ngầm, chủ yếu là vẫn đủ điều kiện độ ẩm cho đầu cừ tràm.
Cần chú ý một số vùng có đất sét, nước mao dẫn có thể lên đến 5-6m.
Thêm một thói quen không rõ nguồn gốc mà chúng ta nên tránh là phủ lớp cát dày lên đầu cừ tràm sau khi đóng mà một số người vẫn hay làm. Do khi làm vậy, lớp cát có thể len lỏi vào lớp bùn hay vào các lỗ khí rỗng bên trong lớp bê tông lót vì áp lực của đáy móng, chưa kể cát cũng có thể dịch chuyển theo dòng chảy, hoặc khi bên cạnh có công trình đào móng, cát sẽ gây sụp lở,.. những trường hợp trên đều là nguyên nhân gây lún hay lún không đều.
Một trường hợp khác cũng hay gây tình trạng lún hay lún không đều là thi công sơ sài lớp bê tông lót, cứ rải đá 4×6 rồi trải xi măng lên trên và cán bằng. Khi đó, dưới áp lực của đáy móng, kết cấu của lớp bê tông lót bị vỡ hoặc biến dạng rồi gây nên sụp lún. Do đó, không nên xem thường chức năng của lớp bê tông lót, phải rải đá 1×2 trực tiếp lên đầu cừ rồi trải xi măng để tạo liên kết thành một khối vững chắc với đầu cừ.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018

So sánh ép cọc cừ tràm và cọc bê tông cốt thép và ưu nhược điểm mỗi loại


Khi tiến hành xây dựng móng cho một công trình, nhiều người loay hoay không biết nên chọn phương án ép cọc nào cho ngôi nhà của mình, với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên ép cọc bê tông cốt thép và sản xuất cừ, cừ tràm Đại Nam chúng tôi xin chia sẽ một số hiểu biết để phân biệt ép cọc cừ tràm và ép cọc bê tông cốt thép hi vọng qua đây bạn sẽ chọn cho mình một phương án phù hợp cho ngôi nhà của bạn.

Phân biệt ép cọc cừ tràm và cọc bê tông cốt thép

Hai phương pháp ép cừ tràm và ép cọc bê tông cốt thép là hai cách được sử dụng phổ biến trong nhà công nghiệp và dân dụng hiện nay.Mỗi phương pháp lại có những lợi thế và những hạn chế riêng cho nên chúng ta cũng cần tìm hiểu một chút để lựa chọn cho phù hợp với từng công trình cụ thể.

Ép cọc cừ tràm là gì?

Đóng cọc tràm là để nâng cao độ chặt của đất, giảm hệ số rỗng dẫn đến nâng cao sức chịu tải của đất nền.
Cọc cừ tràm chỉ đóng được trong đất ngập nước để tràm không bị mục nát, mối mọt, nếu đóng cừ tràm trong đất khô không có nước thì cừ tràm sẽ bị mục và làm đất yếu đi.

Ưu điểm của ép cọc cừ tràm

– Giá thành rẻ
– Có niên hạn 60-70 năm trong điều kiện đất ẩm nước
– Phù hợp với các công trình có trọng nhỏ
– Cọc Cừ tràm có thể đóng thủ công hoặc đóng bằng máy. Vậy đóng nên chọn cách đóng cừ tràm bằng tay hay thủ công thì tốt hơn.

Nhược điểm của ép cọc cừ tràm

Khai thác cừ tràm ngày càng nhiều, nên không dễ tìm được cọc theo yêu cầu kỹ thuật
Sử dụng cừ tràm phải đào sâu 1,8 – 2,2m nên dễ ảnh hưởng đến các công trình lân cận.

Ép cọc bê tông cốt thép

Ép cọc bê tông cốt thép là phương pháp dùng làm cột chống hay cột treo, chịu được xâm thực của các hóa chất hòa tan dưới nền dùng trong các công trình dự án dân dụng lớn chịu tải trọng cao, địa hình phức tạp, nền đất yếu như ao hồ,…
Móng cọc bê tông cốt thép là loại móng được đặt trên các đầu cọc tạo thành các nhóm cọc liên kết với đài và giằng móng tạo thành khối móng vững chắc

Ưu điểm của ép cọc bê tông cốt thép

Chịu được tải trọng lớn bền vững
Dễ dàng tìm được nguyên liệu, vật tư đầy đủ
Phù hợp với nhiều dạng địa hình khác nhau
Chất lượng tốt
Xác định được sức chịu tải của cọc qua lực ép cuối cùng
Thời gian thi công nhanh
Giá cừ tràm không cao, tùy thuộc vào số lượng cọc và yêu cầu về độ sâu của cọc

Những nhược điểm của ép cọc bê tông côt thép

Không thi công được ở những nơi đường chật hẹp
Thi công cọc ép cần phải có tài liệu địa chất tại nơi xây dựng để xác định chiều sâu chôn cọc.
Thi công phải phụ thuộc vào điều kiện thời tiết
Giá thành cao hơn cọc cừ

Việc lựa chọn loại cọc vô cùng quan trọng. Vì móng và cọc phải kết hợp với nhau thành một khối thống nhất để chịu được lực mà không bị gãy liên kết. Để chọn được cách ép cọc phù hợp với ngôi nhà của mình khách hàng hãy liên hệ với Cừ Tràm Đại Nam để được tư vấn.

Nguồn: https://bancutram.com

Biện pháp thi công đóng cừ tràm an toàn chất lượng hiện nay

Đóng cừ tràm là gì?

Hiểu một cách đơn giản, biện pháp thi công đóng cừ tràm là biện pháp thi công gia cố nền móng cho các công trình có tải trọng nhỏ, công trình dưới 4 tầng và đặc biệt phù hợp với các công trình nhà ở trong ngõ hẻm hay các ngôi nhà nằm trên mạch nước ngầm, môi trường ẩm ướt. Phương pháp thi công này thường được ứng dụng phổ biến ở khu vực miền Nam và thay thế cho biện pháp thi công đóng cọc tre của người dân Miền Bắc.
Thi công đóng cọc tràm là biện pháp thi công gia cố nền móng sử dụng phổ biến cho các công trình có tải trọng nhỏ
Thi công đóng cọc tràm là biện pháp thi công gia cố nền móng sử dụng phổ biến cho các công trình có tải trọng nhỏ
Theo các KTS xây dựng, cọc tràm thường được ưa chuộng sử dụng ở những vùng đất luôn luôn ẩm ướt, ngập nước nhằm vừa giúp nâng cao độ chặt của đất, giảm hệ số rỗng dẫn đến nâng cao sức chịu tải của đất nền một cách tốt nhất vừa giúp nâng cao tuổi thọ của cọc. Thực tế thì cách đóng cừ tràm chỉ nên đóng trong đất luôn ẩm ướt để tràm không bị mục nát, mối mọt, trường hợp đóng cọc cừ tràm trong đất khô không có nước thì cừ tràm sẽ rất nhanh bị mục nát và làm đất yếu đi.

Ưu nhược điểm của biện pháp thi công đóng cừ tràm

So với các phương pháp khác, gia cố nền đất nền bằng cách đóng cừ tràm sẽ có giá thành rẻ hơn rất nhiều, do nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên từ đó tiết kiệm chi phí đầu tư khá hiệu quả. Biện pháp thi công đóng cừ tràm thường được lựa chọn sử dụng sau khi các biện pháp khác như ép cọc, đóng cọc nhồi không thể thực hiện và có thể đóng thủ công hoặc đóng trực tiếp bằng máy. Thêm vào đó, cọc tràm có thể có tuổi thọ trong vòng 60-70 năm trong điều kiện đất ẩm nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện thi công đóng cọc cừ tràm đòi hỏi đơn vị thi công, thiết kế phải có tay nghề cao, trình độ chuyên môn đủ để triển khai cao, để đảm bảo công trình không bị nghiêng sau khi xây dựng. Mặt khác, theo giới chuyên môn biện pháp thi công này có quy trình khá phức tạp, tỉ mỉ nên thời gian thi công nhiều hơn các phương pháp khác.
Ngoài ra việc khai thác cừ tràm ngày càng nhiều nên không dễ tìm được cọc theo yêu cầu kỹ thuật của công trình xây dựng đồng thời sử dụng cọc cừ tràm phải đào sâu 1,8 – 2,2m nên tránh làm ảnh hưởng đến các công trình lân cận khác.
So với các phương pháp khác, gia cố nền đất nền bằng cách đóng cừ tràm sẽ có giá thành rẻ hơn.

Những lưu ý khi thi công đóng cừ tràm gia cố móng

Tiêu chuẩn thi công đóng cừ tràm cần lựa chọn cừ tràm thẳng và tươi có chiều dài 4 – 5m, đường kính gốc trung bình 10 – 12cm, đường ngọn 6 – 8cm và phải đóng với mật độ 16 – 25 cây/m² thì sức chịu tải của đất mới đạt 0,6 – 0,8 kg/cm² là tốt nhất.
Về độ sâu, nên đặt vị trí của cừ tràm ở vị trí cao hơn mạch nước ngầm và đất vẫn ẩm ướt, có độ bão hòa cao, để đảm bảo đủ độ ẩm để đầu cừ tràm không bị khô, không bị mục.
Sau khi đóng cọc cừ tràm xong nên tiến hành tạo lớp lót bằng bê tông đá theo tỉ lệ 1-2 và đổ trực tiếp trên đầu cừ để tạo liên kết thành một khối chắc chắn, sau đó tiếp tục thi công phần tiếp theo.
Đặc biệt không nên lấy cát phủ lên đầu cừ sau khi đóng.
Về trình tự thi công đóng cừ tràm nên đóng theo nguyên tác đinh ốc tức là thực hiện từ ngoài vào trong, từ xa về gần, lớn đóng trước, nhỏ đóng sau, đóng cừ tràm xuống phải thẳng, không gẫy, dập, cong vênh để đảm bảo chất lượng công trình xây dựng. Trong trường hợp là dải cọc hoặc hàng cọc thì nên đóng theo hàng tuần tự, còn đối với cọc cừ kè vách hố đào thì đóng từ hàng cọc xa mép hố đào nhất trở vào.
Phương pháp hạ cọc của biện pháp thi công đóng cừ tràm
Tùy vào địa hình và nhu cầu gia chủ, phương pháp thi công đóng cừ tràm có thể hạ cọc theo 2 cách chủ yếu sau đây:
Hạ cọc bằng thủ công: Với cách này bạn có thể dùng vồ gỗ rắn để đóng, để tránh dập nát đầu cọc bắt buộc phải dùng bịt đầu cọc bằng sắt. Cừ tràm đóng xong phải cưa bỏ phần dập nát đầu cọc để đảm bảo thẩm mỹ cho công trình. Trường hợp nền đất yếu, đóng cọc bằng vồ cọc bị nẩy lên thì nên hạ cọc bằng phương pháp gia tải, kết hợp rung lắc. Nên chọn cách đóng cừ tràm bằng máy để tiết kiệm được thời gian và chi phí hơn

Lời kết

Trên đây là một vài chia sẻ của chúng tôi về biện pháp thi công đóng cừ tràm. Hy vọng sẽ cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích cho bạn. Nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc gì hay cần tư vấn chi tiết cụ thể hơn vấn đề này vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay nhé.

Nguồn: https://bancutram.com